Chùa Báo Ân, Hà Nội và những điều chưa biết. (Kì 2)

Nói đến chùa Báo Ân là nói đến những điều bí ẩn khó giải đáp. Ngay cả thời điểm xây chùa chính xác cũng là một trong những vấn đề ít người có thể trả lời được. Tuy nhiên, dựa trên hai nguồn sử liệu quan trọng của triều Nguyễn là Đại Nam Thực Lục và Đại Nam Nhất Thống Chí, ta có thể khoanh vùng được khoảng thời gian xây dựng của chùa Báo Ân(1)(2).

Trong Đại Nam Thực Lục – Đệ tam kỷ, quyển XLIII, phần thực lục về Hiến Tổ Chương Hoàng đế, năm Giáp Thìn, Thiệu Trị năm thứ 4 (1844), vào mùa đông, tháng 10, ngày mồng 1, nhân lễ Đông hưởng có chép lời tấu của Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên Nguyễn Đăng Giai xin tu sửa chùa chiền, tượng Phật và những công trình tôn giáo bị tàn phá, nhưng ý tấu này bị Viện Cơ Mật phản bác mạnh mẽ và nhà vua cũng phê chuẩn theo hướng không khuyến khích việc dựng chùa quy mô lớn vì lo ngại “dị đoan”(1).

“Kính sư là căn bản các thiên hạ, từ sau khi trải qua ngụy Tây gây biến, ví như người có bệnh to gầy còm, nguyên khí chưa hồi phục lại được, xin điều tễ dân sinh, bồi dưỡng nguyên khí, cùng những thuế lệ ở nơi bến thuyền, xin chiếu giá bạc ở mặt chợ mà thu thuế, những chùa chiền, chuông, tượng, xin sắc sai dân gian, tùy lực mà tu tạo ; những chùa chiền cổ mà nguyên trước vẫn có đã bị ngụy Tây đốt phá đi, xin phát của kho giao cho các địa phương sửa chữa” – Nguyễn Đăng Giai tâu

“Các việc Giai điều trần phần nhiều đã thi hành, duy có việc làm chùa thờ Phật càng là sai lầm càn, bậy !”. Viện cơ mật duyệt lại.

Sau khi vua tham vấn với viện Cơ mật, vua phán : 

Thậm chí điều xin sửa sang chùa thờ Phật càng là lầm lẫn ! Ôi, chính đạo với dị đoan, các thánh hiền đời cổ biện thuyết đã rõ rồi. Nước nhà ta, các bậc thánh đời đời nối lên, ban Phước cho dân, chính đạo thịnh hành, giáo hóa rộng khắp. Cái đường vì dân cầu Phước, khuyên dân làm lành vẫn đã có rồi. Đôi khi có dựng chùa quán, hoặc là di tích thần thánh để lại, hoặc chung đúc phát ra điềm lành, nơi sở tại, nhân đó tùy đất mà dựng lên, để ghi nhớ lấy phước tốt, chứ không phải là sùng thượng tả đạo. Ta nên theo tâm pháp, trị phép cũng chỉ thu dân vào chỗ khuôn phép, để mong cho đạo thường được chính đính, dân chúng phấn khởi làm lành, để cùng hưởng Phước thái bình. Nguyễn Đăng Giai đã tự mình đắm đuối vào chỗ đạo giáo hư vô, lại dám dối trước mặt vua cha, nói ra những lời tìm lẽ ẩn vi, làm việc quái lạ thế thì chực muốn cho triều đình đem dị đoan mà xướng xuất thiên hạ hay sao ? Huống chi, trong tập tâu đã xin đình bãi tất cả mọi công việc, mà chỗ chùa chiền thì xin mỗi tỉnh đều phải làm. Công việc còn gì to hơn thế : đem tài lực cho hạn lấp vào chỗ lãng phí không biết thế nào là cùng, gọi là điều tễ bồi dưỡng lại như thế ư ? Không biết ngươi đọc sách gì mà cố chấp mê hoặc đến thế ! Triều đình mở rộng con đường cho nói, muốn cho trên giúp chính trị trong nước, dưới giúp lợi ích cho dân sinh, nếu có mưu mô gì hay, ta cũng sẵn lòng thâu thái, chỉ vì chỗ nơi phần nhiều không đúng lẽ phải, mà việc xin làm chùa lại bị đại thần vạch rõ mà bác đi, ngôn quan nêu ra mà tham hặc ! Đáng lẽ phải giao bộ nghiêm nghị, nhưng nghĩ đến hiện nay chính là lúc cần lời nói thẳng không nỡ bắt tội ngay. Vậy đối với Nguyễn Đăng Giai, hãy truyền Chỉ dụ nghiêm quở, sai viện Đô sát chọn phái một viên khoa đạo, mang tờ dụ đi đường trạm đến tuyên Chỉ nghiêm sức !”.

Như vậy, ta có thể thấy, thời điểm Nguyễn Đăng Giai bị vua Thiệu Trị (2) phê trách rơi vào cuối năm 1844, khi ông nhiều lần đề xin tu sửa các chùa chiền. Tuy nhiên, vào thời điểm này, Nguyễn Đăng Giai đang giữ chức Tổng đốc Sơn – Hưng – Tuyên (tức tam tuyên  Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang), không trực tiếp quản lý Hà Nội, nên khó thể khẳng định chắc chắn chùa Báo Ân được xây dựng ngay trong giai đoạn này.

Về phía nguồn thứ cấp, trong Đại Nam Nhất Thống Chí, tập III – phần Kinh sư (Hà Nội), mục Tự quán (寺觀) có ghi:

“Chùa Liên Trì ở thôn Cựu Lâu, tức chỗ nền cũ của lầu Ngũ Long đời Lê. Đầu đời Thiệu Trị, Tổng đốc Hà Ninh Nguyễn Đăng Giai dựng chùa, quy mô hơn 100 gian, chuông khánh, tượng pháp, điện gác đủ cả. Bấy giờ gọi là chùa Báo Ân.”(3)

Mặc dù Đại Nam Nhất Thống Chí là sách địa chí, không phải chính sử, nhưng khi so sánh với mốc thời gian trong Đại Nam Thực Lục, có thể suy đoán việc xây dựng chùa Báo Ân bắt đầu từ khoảng năm 1841, khi Nguyễn Đăng Giai được điều giữ chức Tuần phủ Bắc Ninh, rồi Tổng đốc Ninh – Thái (Bắc Ninh – Thái Nguyên) vào tháng 7 năm 1841, sau đó mới về làm Tổng đốc Hà Ninh năm 1846(1). Một số khả năng cho rằng ông đã chủ động xây dựng chùa trước khi triều đình chính thức chấp thuận, nên mới dẫn đến việc vua Thiệu Trị trách phạt. Đến đầu năm 1848 khởi triều Tự Đức, Nguyễn Đăng Giai được nhận chức Thương thư Bộ Hình (cái tên đền Ông Thượng, chùa Quan Thượng được xuất phát từ đây).

Theo một số tài liệu dân gian và nguồn Pháp, chùa được xây dựng từ 1841 đến 1847 thì hoàn thành. Điều này trùng khớp với ghi chép của Claude Bourrin trong “Le Vieux Tonkin”, tập I (1884–1889), rằng chùa được xây năm 1841 và bị phá năm 1889 (4).

Bối cảnh xã hội, quan điểm và chính sách Phật Giáo

Bối cảnh xã hội, quan điểm và chính sách về Phật Giáo của triều Nguyễn lúc ra đời của chùa Báo Ân cũng rất đặc biệt. Nhìn chung, đối với Phật giáo, triều Nguyễn có những nốt thăng và những nốt trầm trong từng giai đoạn. Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi sau khi đánh thắng quân Tây Sơn, lấy niên hiệu là Gia Long. Nhà Nguyễn cai trị đất  nước dưới chế độ phong kiến quân chủ tập quyền. Vua có trong tay mọi quyền hành để điều khiển đất nước và tôn giáo cũng nằm trong đó. Tư tưởng nho giáo được lấy làm nền tảng xây dựng nhà nước theo hệ thống “Tam cương, ngũ thường”. Phật giáo tuy là một tôn giáo lâu đời của người Việt nhưng cũng bị đàn áp bởi những chính sách rất hà khắc. Bên cạnh đó, một số tu sĩ trở nên tha hoá với những hoạt động mê tín dị đoan đã khiến cho vua Gia Long càng ngày càng khắt khe hơn với Phật giáo. Việc thờ phụng cha mẹ và thờ Phật cũng không bằng trung với vua:

 “Người thờ Phật là cốt để phúc báo. Sách nhà Phật nói: có duyên Phật độ, không duyên Phật chẳng độ. Lại nói: thờ cha mẹ chẳng ra gì, tuy hằng ngày ăn chay niệm Phật cũng vô ích. Trung với vua mà đến thế, dẫu không cúng Phật cũng không sao” (5)

Đến đời vua Minh Mạng, Phật giáo được chấn hưng mạnh mẽ với những tín hiệu cực kỳ khởi sắc. Chùa được xây dựng nhiều hơn, những ngôi chùa cũ thì được tu bổ và sửa sang nhiều. Chùa được trang hoàng nhiều hơn với các hoạt tiết rồng triều Nguyễn với sự cầu kỳ trong xây dựng. Sự giao thoa, thẩm thấu của Phật giáo với tôn giáo truyền thống của người Việt được thấy rõ ràng hơn dưới việc xuất hiện việc thờ “tiền Phật hậu Tổ” tức bàn thờ tổ sư được đặt sau bàn thờ Phật, Ví dụ, chùa Quốc Ân (Huế), chùa Chúc Thánh (Hội An), chùa Giác Viên, chùa Giác Lâm, chùa Từ Ân (Thành phố Hồ Chí Minh)… đều có dạng chính điện, phía trước thờ Phật, phía sau ngăn ra thành gian thờ Tổ hoặc các tăng chúng quá cố. Các chùa này thường có Bố cục hình chữ Công (工) ( sẽ đề cập trong phần sau của bài). 

Đến đời vua Thiệu Trị, Phật giáo tồn tại và hoạt động dưới sự quản lý và bảo trợ của triều đình. Tuy không phải tôn giáo chính thống nhưng vẫn dành được nhiều sự ưu ái của nhà nước. Chính sách của triều đình đối với Phật giáo thời này không hạn chế như thời Gia Long, không có sự ủng hộ mạnh mẽ như thời Minh Mạng nhưng không vì thế khiến cho Phật giáo thụt lùi. Vua quan vẫn cho phát triển cơ sở thờ tự, các ngôi Quốc tự vẫn nhận được bổng lộc của triều đình, đời sống Tăng chúng giữ được thanh tịnh hòa hợp, Phật sự châu viên. Tuy Phật giáo phát triển như vậy, nhưng nạn mê tín dị đoan trong xã hội vẫn là một quốc nạn. Các đạo sĩ với những tà thuật ghê rợn tung hoành. Tin theo các đạo sĩ, thầy địa lý, nhiều phàm dân có tục “rửa  gân”, “nghiệm gân” bằng cách đào lấy hài cốt cha mẹ, bậc tôn trưởng để chiêm nghiệm việc tốt xấu. Không những thế, vì mê tín dị đoan mà người ta còn quật mồ để hủy hoại vất bỏ xác chết, gọt đầu, làm thương tổn đến tử thi, trộm quần áo của xác chết… có những kẻ còn lấy nội tạng người ra làm bùa, thuốc. Phải chăng, Nguyễn Đăng Giai việc xây chùa Báo Ân ngoài lòng mộ Phật, ông còn muốn muốn đánh tan lòng tin nhảm vào tạp thần ở trong dân chúng. Một số người trong dân gian kháo nhau câu vè : 

Phúc đức gì mày bố đĩ Giai,
Làm cho tổn Bắc lại hao Đoài!
Kìa gương Vũ đế còn soi đó,
Ngã tử Đài thành, Phật cứu ai?  (6)

Đây cũng là lối suy nghĩ nhà nho ta nệ về chính thống của đạo Nho mà công kích những người mộ Phật, công kích Nguyễn Đăng Giai sau khi đã đứng ra quyên góp, vận động tịnh tài (tiền sạch) 36 phố phường người Kẻ Chợ (Hà Nội); huy động thợ giỏi khắp tỉnh thành mọi miền đất nước để xây chùa. Ông xây Báo Ân 報恩寺 triết lý Phật giáo: Ai đức cao, ân trọng sẽ được đền bồi, ai làm điều ác phải chịu tội.

Báo Ân Trong giáo lý nhà Phật là sự ghi nhớ và thể hiện lòng biết ơn đối với “Tứ trọng ân” (bốn ơn lớn): ân cha mẹ, ân Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng), ân quốc gia xã hội, và ân chúng sanh. Việc báo ân không chỉ là đạo đức làm người mà còn là nền tảng cho đời sống tỉnh thức, tu tập đúng hướng, thể hiện qua lời nói và hành động để lan tỏa tình thương yêu đến muôn loài, theo tinh thần “vô duyên đại từ, đồng thể đại bi”.
Hết kỳ 2.


Chú thích

(1) Đại Nam Thực Lục, Đệ tam kỷ, Quyển XLIII.
(2) Vua Thiệu Trị tên thật là Nguyễn Phúc Tuyền, huý là Miên Tông và Dung. Sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão (16.06.1807). Lên ngôi vào ngày 20 tháng Giêng năm Tân Sửu (11.02.1841) tại điện Thái Hoà, mất ngày 27 tháng 9 năm Đinh Mùi (04.10.1847) Thời gian ngự trị 7 năm.
(3) Đại Nam Nhất Thống Chí, Tập III – Kinh sư (Hà Nội), mục Tự quán.
(4) Claude Bourrin, Le Vieux Tonkin, Tome I (1884–1889).
(5) Đại Nam Thực Lục tiền biên – Đệ Nhất kỷ –  Quyển XXIII Giáp tý, Gia Long năm thứ 3 [1804] (Gia Khánh năm thứ 9), mùa xuân, tháng giêng, vua ở hành cung thành Thăng Long.
(6) Câu vè này là do Ba Giai – Nguyễn Văn Giai 阮文偕 khi còn nhỏ tuổi, nhân buổi khánh thành chùa Báo Ân, vì ghét thói hiếu hư danh nên đã lấy cục than vạch bừa lên bức tường trắng trước chùa. Quân lính thấy vậy liền bắt ngay vào gặp Cụ Thượng, Cụ cáu và bảo sẽ đánh đòn nếu không sửa câu vè còn nếu sửa hay sẽ được thưởng. Ba Giai liền ứng khẩu đổi lại rằng :

“Phúc đức ai bằng cụ Thượng Giai,
Làm chùa bên Bắc lại bên Đoài
Nam mô tế độ nhờ ơn Phật,
Lộc thọ song toàn chẳng kém ai.”

Leave a comment

I’m Thảo

Tốt nghiệp đại học chuyên ngành phê bình và lý luận điện ảnh, đại học Paris 10 – Nanterre La Défense, tôi có một niềm thích thú với lịch sử Việt Nam. 

Contact me