
Sức ảnh hưởng của Pasteur đã có từ rất lâu, tuy nhiên vào năm 1890, với yêu cầu của chính Louis Pasteur, bác sĩ Albert Calmette đã tới Sài Gòn để lập nên Phòng thí nghiệm vi khuẩn đầu tiên tại Indochine nơi đã cho ra huyết thanh chống độc rắn (sérum antivenimeux) tại Indochine.
Sau đó viện được mở ra tại Nha Trang gần bờ biển Annam nơi họ điều chế ra huyết thanh chống bệnh dịch hạch (sérum antipesteux). Cả 2 viện đều được mang tên l’Institus Pasteur d’Indochine và dưới quản lý của giám đốc điều hành bác sĩ Alexandre Yersin (từ bỏ chức hiệu trưởng trường Đại học Y – Hà Nội 1902-1904).
Tại Hà Nội, việc xây dựng một học viện nghiên cứu Pasteur đã được thai nghén từ năm 1897. Sau khi căn bệnh dại liên tiếp được gia tăng đáng ngại mặc dù không nằm trong mùa nóng. Đã có nhiều phát hiện về người dân bị chứng sợ nước và không ra khỏi nhà sau bị các con vật nhiễm bệnh cắn. Rất nhiều người chết ngay cả khi chính quyền đã có những biện pháp được cho là “khôn ngoan” để phòng dịch. Tại bệnh viện Hà Nội có 1 phòng thí nghiệm phòng chống bệnh dại là cơ sở phụ của Viện Pasteur ở Sài Gòn được thành lập, tuy nhiên hoạt động chính vẫn là tiếp nhận các đơn hàng chống bệnh gửi từ Sài Gòn ra.
Mãi sau đến năm 1906, Viện Pasteur Hà nội mới được thành lập dưới sự chỉ đạo của bác sĩ Henri Salanoue-Ipi. Đến năm 1923, Viện đổi tên chính thức thành l’Institut National d’Hygiène et d’Epidémiologie d’Hanoï ( Viện vệ sinh dịch tễ Trung ương Hà Nội).
Cũng chính vào năm này, chính quyền Hà Nội đã xây dựng cạnh Hồ Gươm (le petit lac) một bức tượng Pasteur.
Hồ gươm được miêu tả rất rộng, phải đi bộ 1 giờ mới hết hồ, xung quanh đầy bóng mát và hoa. Con hồ và vườn hoa, khu tượng là nơi hẹn hò của người dân Hà Nội. Từ 6-7 giờ tối, các chàng trai trong bộ quần áo trắng, đầu trần, đến hẹn hò với các cô đầm trong bộ áo thời thượng trên xe kéo cũng như oto. Sau 8h tối thì không còn ai trên phố nữa. Đó là cuộc sống thời thượng ở đây !

Khung cảnh người dân rửa bát và giặt quần áo bên bờ hồ Hoàn Kiếm



Leave a comment